Theo báo Vietnamnet, sau một thời gian lâm bệnh nặng, dù được Đảng, Nhà nước, quân đội, các giáo sư, bác sĩ, gia đình tận tình chăm sóc cứu chữa, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã từ trần rạng sáng nay 14/9.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh sinh ngày 15/5/1959. Tuy nhiên, trong giấy tờ lý lịch ghi ông sinh năm 1957 (trong một cuộc trao đổi gần đây với VietNamNet, Thượng tướng giải thích rằng, khi xin đi bộ đội thì mới 17 tuổi, nếu khai tuổi thật không được nhập ngũ, nên phải khai thêm 2 tuổi).
Thượng tướng quê quán tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, XII; trình độ chuyên môn Giáo sư, Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Năm 1998 ông giữ chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II, Bộ Quốc phòng. Năm 2002 ông được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục II, Bộ Quốc phòng. Tháng 2/2009, ông được Thủ tướng bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Lê Anh Dũng
Tháng 1/2011, ông Nguyễn Chí Vịnh được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI.
Năm 2011, ông được phong quân hàm Thượng tướng. Đến tháng 1/2016, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII.
Trong lễ trao huy hiệu 40 năm tuổi Đảng mới diễn ra hồi cuối tháng 8, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng nhận định, suốt 40 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng, ông Nguyễn Chí Vịnh luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh luôn đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật, giữ vững nguyên tắc, có phong cách làm việc quyết đoán, thận trọng, khách quan, gần gũi, sâu sát cơ sở; kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thượng tướng đã giữ gìn, nêu cao và tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, đạo đức cách mạng trong sáng, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; luôn tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ của người cộng sản kiên trung, người cán bộ, vị tướng của Quân đội.
Đặc biệt, trên cương vị Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã cùng tập thể Thường vụ Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong hoạch định và triển khai thực hiện hiệu quả đường lối quân sự, quốc phòng; hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng; chủ trương, đối sách xử lý các tình huống phức tạp, nhạy cảm nảy sinh liên quan đến quốc phòng, an ninh, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Năm 2009, ông giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và là Ủy viên Trung ương Đảng Khóa XI, Khóa XII.
Quá trình công tác, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng vào năm 1999; thăng quân hàm Trung tướng năm 2004 và thăng quân hàm Thượng tướng năm 2011.