Ông sống một mình trong căn nhà cấp 4 cũ kỹ, mái tôn rỉ sét, cửa sắt luôn khóa trái từ bên trong. Nhưng điều khiến người ta nhớ nhất là: ông nuôi đến 18 con mèo. Mỗi con một màu, một dáng, tên gọi rõ ràng, được ông chăm như con ruột.
Sáng nào cũng vậy, 5 giờ ông đẩy xe đi bán vé số. Đến trưa lại tất tả về nhà – không tiếp ai, không nói chuyện, ai đến gần cửa nhà là ông quát lớn:
– “Đi đi! Không bán gì hết! Đừng tới gần!”
Nhiều người bực, bảo ông lập dị, khó ưa. Có đứa nhỏ từng nghịch dại ném đá con mèo của ông, hôm sau cả nhà thằng bé thấy trước cổng treo bịch thức ăn mèo… kèm tờ giấy nguệch ngoạc: “Nó cũng đau như con mày.”
Từ đó, không ai dám bén mảng đến gần nhà ông nữa.
Mọi chuyện cứ vậy cho đến một buổi sáng mưa tháng 9, người ta thấy xe ông Tư còn dựng ngoài chợ, vé số chưa bán tờ nào. Hàng xóm gõ cửa không thấy ai trả lời. Đám mèo kêu gào thảm thiết bên trong.
Chính quyền phải phá khóa vào nhà.
Và khi cửa mở ra – tất cả ch” ết lặng.
Căn nhà bên trong không hề tồi tàn như vẻ ngoài. Trái lại, sạch sẽ, ngăn nắp, từng góc đều được lót thảm mềm cho mèo nằm. Bàn thờ đặt giữa nhà, trên đó là ảnh một người phụ nữ còn trẻ – trang điểm nhẹ, nét mặt buồn buồn – phía dưới ghi: “Nguyễn Thị N…”
Kế bên là một cuốn sổ tay ghi chi chít dòng chữ:
“Con Mướp thích ăn cá nục.”
“Thằng Đen nhát m: a, nhớ đóng cửa sổ ban đêm.”
“Chị Hai thích nghe đài – mở lúc 7h tối.”
Chính quyền mở tiếp căn phòng phía trong – và phát hiện két sắt cũ kỹ, bên trong không phải tiền – mà là 18 tờ giấy khai sinh. Mỗi tờ đứng tên ông Tư là người “bảo hộ nuôi” – bên tên con là: “Mướp – cái”, “Đen – đực”, “Bông – cái”, v.v…
Tất cả là… mèo.
Nhưng chưa hết.
Trong hộp thư trên bàn, có một lá thư chưa gửi, đề tên: “Gửi con gái tôi – Nguyễn Thị Mai”. Trong thư, ông viết:
“Ba xin lỗi vì năm đó bỏ con lại cho trại trẻ mồ côi.
Ba không thể chăm con khi mẹ con mất.
Những con mèo này… là cách ba tự trừng phạt mình.
Mỗi con ba nuôi, ba đặt tên theo những đứa trẻ bị bỏ lại năm xưa ba từng thấy – và không thể cứu.
Ba sợ nếu con đến tìm… thấy nhà bẩn thỉu, sẽ quay đi.
Nhưng nếu con vẫn muốn tha thứ, thì mở két – sẽ biết ba chưa từng quên con.”
Tin tức lan khắp phường. Người ta tìm được cô Mai – giờ là giáo viên ở Bình Dương. Cô đến, ôm lấy từng con mèo, vừa khóc vừa gọi tên chúng. Cô kể:
– Mỗi lần tôi đến trại trẻ năm xưa, có người đàn ông đeo nón rách đứng rất xa. Tôi không biết là ba. Nhưng tôi luôn cảm thấy… có ai đó đang lặng lẽ trông chừng.
Từ đó, người ta không gọi là “ông Tư vé số” nữa, mà gọi là “ông Tư giữ “trẻ hoang”.
Căn nhà được sửa lại thành trạm cứu hộ mèo nhỏ, mang tên:
“Mái Ấm 18 Bóng Nhỏ.”
Một năm sau ngày ông Tư mất, căn nhà nhỏ dưới tán bàng rợp bóng đã trở thành nơi lui tới thường xuyên của người yêu động vật và những đứa trẻ thiếu may mắn. Cô Mai, sau khi nhận lại gia đình theo cách kỳ lạ và đau đớn nhất, đã nghỉ dạy, quay về quê cha, nhận nuôi 18 “đứa em nuôi” của mình – lũ mèo ông Tư để lại.
Cô không chỉ sửa sang lại ngôi nhà, giữ nguyên bàn thờ mẹ, cuốn sổ tay lấm lem dòng chữ của cha và những tờ khai sinh mèo kỳ lạ… mà còn mở rộng không gian thành một nơi nương tựa thực sự: cho cả mèo lẫn người.
Từ vài đứa trẻ đầu tiên được chính quyền phường giới thiệu – những đứa hay ngủ ở chợ, lượm ve chai, bỏ học vì cha mẹ đi tù hoặc mất sớm – dần dần, “Mái Ấm 18 Bóng Nhỏ” trở thành ngôi nhà thật sự. Chúng được Mai nhận làm con nuôi, từng đứa một. Mỗi đứa có chỗ ngủ, có đồ ăn nóng mỗi tối, có giờ học cố định và một con mèo làm bạn riêng.
Cô dạy chúng cách chăm mèo, cách kiên nhẫn, cách yêu thương. Không phạt roi, chỉ có những cái ôm và lời răn nhẹ nhàng như cha cô từng viết trong sổ:
“Ai từng đau thì càng phải biết cách làm dịu nỗi đau người khác.”
Có những buổi tối mưa, lũ nhỏ tụ lại trong căn phòng khách ấm ánh đèn, mỗi đứa ôm một con mèo, mắt chăm chăm vào cô Mai đang kể chuyện cổ tích. Những lúc ấy, cô nhìn lên bàn thờ – nơi ông Tư vẫn ngồi đó, trong khung ảnh cũ, ánh mắt như đang mỉm cười mãn nguyện.
Tin về mái ấm lan xa. Nhiều người tìm đến giúp đỡ. Bác sĩ thú y tình nguyện, sinh viên tới dạy học, những người từng lang bạt tìm về để cho và nhận yêu thương. Mỗi tờ giấy khai sinh của mèo vẫn còn đó – nhưng giờ trong ngăn kéo bên cạnh, là giấy khai sinh mới của lũ trẻ, nơi phần “Cha/Mẹ nuôi” ghi tên: Nguyễn Thị Mai.
Cô hay nói với khách ghé thăm:
– Ba tôi từng cứu 18 linh hồn mèo hoang. Tôi chỉ đang tiếp tục điều ông ấy làm dở… với những linh hồn nhỏ khác.
Trên tường ngoài cổng, bức tranh tường được hoàn thiện: ông Tư ngồi giữa đàn mèo, bên cạnh là cô Mai bế một đứa trẻ nhỏ, xung quanh là lũ nhóc ríu rít chạy chơi.
Bên dưới là dòng chữ:
“Những linh hồn lạc lối không cần phép màu. Chỉ cần một cánh cửa không khóa và một người dám yêu.”