Sau đám tang, em trai tôi suy sụp một thời gian rồi nhanh chóng tái hôn. Cô vợ mới của anh không giấu được sự khó chịu khi phải sống chung với “con riêng của chồng”. Chẳng bao lâu sau, em mang hai đứa nhỏ đến gửi tôi, chỉ nói gọn:
– Nhờ chị chăm giùm một thời gian, để tụi nhỏ ổn định rồi em tính.
Nhưng cái gọi là “một thời gian” ấy… tính đến nay đã kéo dài suốt 6 năm.
Không một cuộc gọi hỏi thăm. Không một đồng chu cấp.
Tôi không than, cũng chưa từng trách. Là một giáo viên lương tháng đủ sống, tôi vẫn gồng gánh lo cho hai đứa ăn học đầy đủ. Chúng luôn rất lễ phép, và nghe lời như con ruột.
Có lần, bạn bè hỏi:
– Mày khùng à? Nuôi cháu làm gì cho cực vậy?
Tôi chỉ cười gượng:
– Thương thì nuôi thôi… Tụi nhỏ không có tội.
Đầu mùa hè năm nay, vào một buổi trưa oi ả, thằng anh – giờ đã 13 tuổi – rụt rè dúi vào tay tôi một tờ giấy đã gấp tư, nói nhỏ:
– Con thấy cái này trong túi đựng quần áo của con…
Tôi run tay mở ra. Là một mảnh giấy đã hơi ngả màu, nét chữ nghiêng nghiêng, quen thuộc. Có lẽ hồi đó tôi không để ý trong ngăn khóa nhỏ nên không biết có tờ giấy này.
Đó là thư tay của em dâu – người đã khuất.
“Nếu một ngày tôi không còn, xin đừng giao con tôi cho người đàn bà khác.
Hãy đưa chúng về cho chị chồng tôi – người từng nói rằng nếu tôi gặp chuyện, sẽ thay tôi nuôi con.
Gửi kèm sổ tiết kiệm, tôi dành dụm suốt những năm tháng đi làm thuê.”
Tôi ch: ết lặng. Không chỉ có bức thư mà bên trong ngăn nhỏ của túi quần áo mà bao lâu tôi không mở ra, là một cuốn sổ tiết kiệm trị giá 980 triệu đồng, đứng tên em dâu.
Ngoài ra còn có một bản di chúc viết tay, có xác nhận của Chủ tịch UBND xã – nét chữ và dấu đỏ vẫn còn rõ:
“Toàn bộ số tiền trong sổ tôi để lại cho hai con tôi.
Người chị chồng – Trần Thị T. – là người tôi tin tưởng giao quyền quản lý số tiền này cho đến khi các con đủ 18 tuổi.
Nếu cha các cháu không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, chị tôi được toàn quyền rút số tiền này để lo cho hai cháu.”
Tôi ngồi phịch xuống nền nhà. Nước mắt tôi cứ thế trào ra.
Không phải vì số tiền.
Mà vì lần đầu tiên, sau bao năm âm thầm gánh vác, tôi được ghi nhận – bởi chính người mẹ đã khuất của hai đứa trẻ. Một người đàn bà, trước khi nhắm mắt, vẫn canh cánh một điều duy nhất: Con mình rồi sẽ ra sao?
Cái kết – và quyết định không ngờ của tôi…
Tôi vẫn giữ hai đứa nhỏ lại bên mình. Nhưng thay vì dùng số tiền đó để bù đắp cho những năm tháng đã hy sinh, tôi lặng lẽ mở một tài khoản tiết kiệm mới, đứng tên hai cháu.
Tôi tự nhủ:
“Tiền này là của mẹ tụi con để lại. Bác chỉ giữ giùm.
Đến khi tụi con đủ 18 tuổi, hãy tự tay đi rút – để biết rằng mẹ tụi con vẫn ở bên, không rời đi bao giờ.”
Tôi vẫn đi dạy. Thỉnh thoảng nhận thêm vài lớp phụ đạo buổi tối để có thêm tiền mua sách, mua giày cho tụi nhỏ. Có khi mệt rã rời, nhưng mỗi lần nhìn hai đứa ngồi học ngoan ngoãn bên bàn, tôi lại thấy trong tim mình có một khoảng ấm, như em ấy vẫn dõi theo, ở đâu đó – mỉm cười.
….
Năm tháng trôi qua, như cái chớp mắt của một người phụ nữ độc thân đã quen với hy sinh và âm thầm. Hai đứa trẻ ngày nào còn bám gấu áo bác để đi học nay đã trưởng thành.
Thằng anh – giờ là sinh viên năm cuối ngành Y, đang thực tập tại một bệnh viện lớn ở thành phố. Thằng bé – cũng vừa thi đậu vào Đại học Sư phạm, ước mơ sau này trở thành giáo viên như bác.
Tôi xúc động vì cảm thấy mọi nhọc nhằn mình từng chịu – cuối cùng cũng được hồi đáp bằng một điều giản dị: “Tụi nhỏ nên người.”
Một buổi tối, thằng lớn rụt rè đặt trước mặt tôi hai chiếc phong bì đỏ, rồi ngồi xuống ghế, nói nhỏ:
– Con đi làm thêm được chút tiền. Cái này con và em góp mua cho bác bộ đồ mới với cái kính đọc sách. Bác thay cái cũ đi, con thấy đã tróc gọng từ lâu…
Tôi không nói được lời nào. Chỉ biết nắm tay nó thật chặt.
Chúng không phải là con tôi sinh ra, nhưng là con tôi nuôi lớn bằng tất cả tình thương và tự trọng. Không phải máu mủ mới là ruột rà – mà chính là tình nghĩa và nhân tâm.
Năm tôi 60 tuổi, buổi lễ tốt nghiệp của thằng lớn, nó cầm tấm bằng bác sĩ, dẫn tôi lên sân khấu, nói trong bài phát biểu:
– Người mẹ thứ hai của đời tôi – là bác tôi. Người đã thay mẹ ruột nuôi dạy hai anh em tôi bằng tình yêu thương không điều kiện, bằng sự lặng lẽ mà kiên cường. Nếu không có bác, tôi không biết mình đã thành người như thế nào.
Cả khán phòng vỗ tay. Tôi ngồi dưới, vừa cười vừa khóc.
Còn thằng bé – sau này về quê dạy học, ở gần tôi. Nó bảo:
– Bác già rồi, con không muốn bác sống một mình. Để con chăm lại bác, như bác từng chăm con.
Tôi nhìn hai đứa, lòng nhẹ như gió đầu mùa. Em dâu tôi, chắc ở nơi xa lắm, cũng đã an lòng.
Cái gọi là “báo đáp” đôi khi không cần phải thật lớn lao. Chỉ cần một cái ôm, một tiếng gọi “bác ơi”, một bữa cơm quây quần… cũng đủ khiến người từng hy sinh cả tuổi xuân cảm thấy mình được yêu thương, không cô độc trên hành trình làm người tử tế.